Kính gởi các văn bản mới có hiệu lực
I. Nghị quyết của Chính phủ
Ngày 09/11/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 139/2018/NQ-CP về Chương trình hành động cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp.
Tại Nghị quyết đã đánh giá về môi trường kinh doanh như sau: thực tiễn cho thấy vẫn còn những hạn chế, bất cập và cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các giải pháp để cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp nhiều hơn nữa. Các chỉ số về môi trường kinh doanh của Việt Nam theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới tuy có cải thiện đáng kể nhưng thứ hạng của nhiều chỉ số còn thấp khá xa so với các nước trong khu vực; trong đó năm 2018, tổng mức thuế và chi phí bảo hiểm doanh nghiệp Việt Nam phải nộp chiếm 38,1% lợi nhuận trước thuế, trong khi con số này ở Thái Lan là 28,7%, ở Indonesia là 30%. Báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2017 của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy 59,3% doanh nghiệp cho rằng doanh nghiệp cùng ngành thường phải trả thêm các khoản chi phí không chính thức; lãnh đạo của khoảng 30% doanh nghiệp phải dành hơn 10% quỹ thời gian cho tìm hiểu và tuân thủ quy định pháp luật; 44% doanh nghiệp cho rằng thủ tục thuê, mua đất phức tạp; 16% doanh nghiệp cho rằng giá đất theo quy định nhà nước cao.
Nghị quyết của Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, cải cách mạnh mẽ hơn nữa, đặc biệt là cắt giảm các chi phí bất hợp lý, tạo mọi thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh.
Mục tiêu tổng quát Nghị quyết đưa ra là: Cắt giảm triệt để các chi phí bất hợp lý trong tuân thủ quy định pháp luật về kinh doanh, đẩy lùi và ngăn chặn các hành vi làm phát sinh chi phí không chính thức cho doanh nghiệp; tạo dựng một môi trường kinh doanh chi phí thấp, ổn định; khuyến khích đầu tư, gia nhập thị trường và cạnh tranh.
II. Công văn hướng dẫn
1. Công văn số 4389/TCT-TNCN ngày 08/11/2018 về việc vướng mắc chính sách thuế thu nhập cá nhân
- Trường hợp cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công ký hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên mà có thêm thu nhập vãng lai ở các nơi khác bình quân tháng trong năm không quá 10 triệu đồng đã được đơn vị trả thu nhập khấu trừ thuế tại nguồn theo tỷ lệ 10% nếu không có yêu cầu thì không quyết toán thuế đối với phần thu nhập này.
Trường hợp cá nhân trong năm có thu nhập không quá 120 triệu đồng/năm nhưng có thu nhập dưới 2 triệu chưa được khấu trừ thuế tại nguồn theo tỷ lệ 10% thì khoản thu nhập này được tính vào thu nhập chịu thuế khi quyết toán thuế.
Trong trường hợp này, cá nhân có thu nhập phải tự đi quyết toán thuế với cơ quan thuế theo quy định.
2. Công văn số 4409/TCT-KK ngày 09/11/2018 về việc thuế GTGT vãng lai ngoại tỉnh
Kho bạc Nhà nước (KBNN) tỉnh Phú Yên thực hiện khấu trừ số thuế GTGT theo tỷ lệ 2% trên số tiền thanh toán từ nguồn vốn ngân sách nhà nước (NSNN) của công trình để nộp và hạch toán thu NSNN cấp tỉnh có liên quan; cụ thể trường hợp này là KBNN tỉnh Khánh Hòa. Theo quy định, trường hợp người nộp thuế chứng minh đã nộp tiền thuế vào NSNN thì không thuộc phạm vi KBNN khấu trừ thuế tương ứng số đã thực nộp. Việc KBNN tỉnh Phú Yên đã hạch toán ghi thu NSNN tỉnh Phú Yên đối với số thuế GTGT khấu trừ 2% trên tổng số tiền thanh toán từ nguồn vốn NSNN cho công trình xây dựng Hầm Đèo Cổ Mã của người nộp thuế là Công ty cổ phần Sông Đà 10 là không đúng quy định.
- Số tiền thuế KBNN tỉnh Phú Yên đã hạch toán ghi thu vào NSNN tỉnh Phú Yên không đúng quy định là số tiền thuế nộp thừa của Công ty cổ phần Sông Đà 10 và Công ty có quyền xử lý tiền thuế nộp thừa theo quy định tại Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trường hợp Công ty có văn bản đề nghị hoàn trả tiền thuế nộp thừa thì Cục Thuế tỉnh Phú Yên căn cứ vào các chứng từ thanh toán, văn bản xác nhận của Cục Thuế tỉnh Khánh Hòa nêu trên để giải quyết hoàn trả theo hướng dẫn tại Điểm c Khoản 3 Điều 58 Thông tư số 156/2013/TT-BTC với nguồn chi từ NSNN tỉnh Phú Yên năm hoàn trả. Công ty không bị tính tiền chậm nộp đối với số tiền thuế GTGT vãng lai còn phải nộp của công trình tại tỉnh Khánh Hòa kể từ ngày KBNN tỉnh Phú Yên đã hạch toán ghi thu không đúng quy định.
3. Công văn số 4426/TCT-DNL ngày 12/11/2018 về việc kê khai, nộp thuế GTGT đối với hoạt động sản xuất thủy điện
Trường hợp Công ty cổ phần công nghiệp Việt Long có trụ sở tại thành phố Hà Nội, đăng ký kê khai, nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, có nhà máy thủy điện Việt Long 1 tại huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang, đồng thời công ty vừa có hoạt động kinh doanh khác ngoài hoạt động thủy điện và đang thực hiện đầu tư một số dự án thủy điện trên địa bàn tỉnh Lào Cai, Tuyên Quang đang trong giai đoạn đầu tư) thì phải xác định riêng số thuế GTGT phát sinh của hoạt động sản xuất thủy điện tại nhà máy thủy điện Việt Long 1 để nộp cho Cục thuế tỉnh Hà Giang (nơi được hưởng nguồn thu từ nhà máy thủy điện Việt Long l). Công ty khai số thuế GTGT phát sinh phải nộp của hoạt động sản xuất thủy điện nêu trên vào phụ lục bảng kê 01-1/TĐ-GTGT. Số thuế GTGT đã nộp của hoạt động sản xuất thủy điện tại tỉnh Hà Giang (theo chứng từ nộp thuế) được trừ vào số thuế GTGT phải nộp theo Tờ khai thuế GTGT mẫu số 01/GTGT của Công ty cổ phần công nghiệp Việt Long.
Khoản thuế GTGT của hoạt động sản xuất thủy điện đã nộp tại Cục thuế tỉnh Hà Giang, Công ty cổ phần công nghiệp Việt Long thực hiện kê khai tại phụ lục bảng kê 01-5/GTGT và chỉ tiêu 39 trên tờ khai thuế GTGT mẫu số 01/GTGT.
4. Công văn số 4445/TCT-DNL ngày 12/11/2018 về việc thuế GTGT đối với hoạt động chuyển nhượng kinh doanh Ngân hàng Bán lẻ
Căn cứ các quy định pháp luật hiện hành và thực tế thông tin, số liệu tại công văn số 20180907, hợp đồng chuyển nhượng vốn giữa Ngân hàng ANZ và Ngân hàng Shinhan, Biên bản làm việc ngày 2/4/2018 giữa Ngân hàng Shinhan và Tồng cục Thuế thì:
Các hạng mục là tài sản và nguồn vốn liên quan trực tiếp đến dịch vụ cấp tín dụng thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT.
- Các hạng mục là tài sản cố định, công cụ dụng cụ, chi phí cải tạo văn phòng và tiền thuê VP trả trước mà Ngân hàng đã tách được sau thời điểm chuyển nhượng trên báo cáo tài chính không liên quan trực tiếp đến hoạt động cấp tín dụng nên phải chịu thuế GTGT là 10%.
- Đối với số tiền cố định mà Ngân hàng ANZ nhận được từ ngân hàng Shinhan, do không phải là trị giá hàng hóa, dịch vụ nên không phải kê khai nộp thuế GTGT nhưng phải kê khai nộp thuế TNDN theo quy định.
5. Công văn số 4459/TCT-DNL ngày 14/11/2018 về việc thuế TNDN đối với thu nhập từ nước ngoài
Tại Khoản 2 Điều 5 Thông tư 205/2013/TT-BTC ngày 24/12/2013 của Bộ Tài chính quy định:
“2. Hiệp định không tạo ra các nghĩa vụ thuế mới, khác hoặc nặng hơn so với luật thuế trong nước. Trường hợp tại Hiệp định có các quy định theo đó Việt Nam có quyền thu thuế đối với một loại thu nhập nào đó hoặc thu thuế với một mức thuế suất nhất định những pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam chưa có quy định thu thuế đối với thu nhập đó hoặc quy định thu với mức thuế suất thấp hơn thì áp dụng theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam, nghĩa là không thu thuế hoặc thu thuế với mức thuế suất thấp hơn."
Căn cứ các quy định nêu trên, trường hợp Công ty CP Điện Việt Lào bắt đầu thực hiện các dự án đầu tư tại Lào từ năm 2008 thì:
Trước thời điểm năm 2014, nếu Công ty CP Điện Việt Lào có thu nhập từ dự án đầu tư tại Lào thì Công ty thực hiện kê khai, nộp thuế TNDN đối với thu nhập này theo quy định của Luật Thuế TNDN của Việt Nam. Kể từ thời điểm năm 2014, nếu Công ty CP Điện Việt Lào chuyển thu nhập từ dự án đầu tư tại Lào sau khi đã nộp thuế TNND tại Lào về Việt Nam thì Công ty thực hiện kê khai, nộp thuế TNDN theo quy định của Luật Thuế TNDN của Việt Nam.
Mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp để tính và kê khai thuế đối với các khoản thu nhập từ nước ngoài là thuế suất thuế TNDN phổ thông theo quy định tại pháp luật thuế TNDN được áp dụng theo từng thời kỳ, không áp dụng mức thuế suất ưu đãi nếu có) mà doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài đang được hưởng theo Luật Thuế TNDN hiện hành.
Trường hợp khoản thu nhập từ dự án đầu tư tại Lào của Công ty CP Điện Việt Lào đã chịu thuế TNDN (hoặc một loại thuế có bản chất tương tự như thuế TNDN) ở Lào thì khi tính thuế TNDN phải nộp tại Việt Nam, Công ty được trừ số thuế đã nộp ở Lào hoặc đã được đối tác tại Lào trả thay và số thuế TNDN Công ty được miễn, giảm đối với phần lợi nhuận được hưởng từ dự án đầu tư tại Lào theo Luật pháp Lào nhưng số thuế được trừ không vượt quá số thuế thu nhập tính theo quy định của Luật Thuế TNDN của Việt Nam.
0 Nhận xét